Hoa hòe và những bài thuốc dân gian liên quan đến hoa hòe

Mỗi loài hoa sẽ có những công dụng riêng. Có những loại hoa chỉ có công dụng là để trang trí, tạo mùi thơm, hay chỉ là các biểu tượng của một vấn đề gì đó. Nhưng cũng có rất nhiều loài hoa vừa cho hương thơm, cho sắc đẹp của nó và có công dụng chữa rất nhiều bệnh. Hòa hòe chính là loài hoa như vậy, nó chính là một vị thuốc dân gian trong kho tàng của Việt Nam với công dụng nó mang lại. Nhưng bên cạnh công dụng của nó chúng ta cần lưu ý khi sử chúng quá nhiều.

Nguồn gốc của hoa hòe

Cây hòe [ Styphnolobium japonicum (L.) Schott], họ Đậu (Fabaceae) là cây nhỡ, cao đến 7 m, cành hình trụ, nhẵn. Lá kép lông chim lẻ, mọc so le, các lá chét mọc đối.

Cụm hoa mọc thành chùm ở đầu cành, màu trắng hoặc vàng nhạt. Quả đậu hình tràng hạt, thắt lại không đều giữa các hạt. Hòe được trồng ở nhiều nơi trong nước ta. Nhất là các tỉnh đồng bằng sông hồng, như Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Nam Định…

Để lấy nguyên liệu xuất khẩu, chiết xuất rutin và làm thuốc trong YHCT. Chỉ thu hái hoa hòe khi đã có từ 5 – 10 % hoa đã nở, ta thu được nụ hòe, có kích thước bằng hạt gạo tẻ; do vậy mà có tên là hòe mễ (mễ là gạo).

Nguồn gốc của hoa hòe
Chùm hoa hòe đang nở.

Trong hoa hòe chứa rutin. Ngoài ra, còn có quercetin, betulin, sophoradiol, sophorin A, B, C và sophorose.

Hoa hòe nếp chứa nhiều rutin hơn hòe tẻ. Qua chế biến, hàm lượng rutin có thể thay đổi: 34.7% ở dạng sống, 28.9% ở dạng sao vàng và 18.5% ở dạng sao cháy. Ngoài ra, hoa hòe còn chứa bertulin, sophoradiol, sophorin A, B, c và sophorose.

Công dụng của hoa

Hoa hòe có tác dụng tăng cường sức đề kháng, giảm tính thấm của mao mạch. Hồi phục tính đàn hồi của mạch máu đã tổn thương.Tác dụng chống viêm.

Làm giảm sự tiêu hao oxy của cơ tim. Tác dụng cầm máu (hoa hòe hòe sao cháy). Tác dụng hạ huyết áp; bảo vệ gan (rutin), Chống kết tập tiểu cầu (rutin, quercetin); hạ cholesterol máu; cường tim và giãn động mạch vành; giải co thắt cơ trơn phế quản và ruột (quercetin).

 Theo YHCT, hoa hòe có tác dụng lương huyết, chỉ huyết, thanh can, tả hỏa, hạ huyết áp. Dùng trị các chứng chảy máu: Chảy máu cam, đại tiểu tiện ra máu, xuất huyết dưới da, trĩ xuất huyết, cao huyết áp.

Hoa hòe có tác dụng lương huyết, thanh nhiệt và cầm máu rất tốt. Thường được dùng để chữa các bệnh ho ra máu, chảy máu cam, tiểu tiện; đại tiện ra máu, phụ nữ băng huyết, nâng cao sức bền thành mạch,…

Với tính lạnh nên người sử dụng cần phải cẩn trọng. Đối với người bệnh bị lạnh bụng, đi ngoài hay chậm tiêu, nếu dùng thì phải kết hợp với các dược liệu có tính ấm nóng.

Liều lượng, ngày  4 – 12g, dạng thuốc sắc hoặc thuốc hãm. Cần lưu ý, không dùng hoa cho phụ nữ có thai.

Hoa hòe chữa các bệnh sau

Hoa chứa nhiều rutin – một chất làm bôi thành mạch, được dùng để cầm máu trong các trường hợp xuất huyết, đề phòng tai biến do mạch máu bị xơ vữa, giòn, dễ vỡ, được dùng điều trị bệnh cao huyết áp.

Trị máu cam, trĩ xuất huyết, nụ hòe, trắc  bách diệp, ngải diệp, tất cả đều sao cháy,  mỗi vị 10g. Sắc uống ngày một thang.

Hoa hòe chữa các bệnh sau
Trà hoa hòe khô.

Trị tăng huyết áp, đau mắtnụ hòe (sao vàng), lá sen, mỗi vị 10, cúc hoa vàng 4g, sắc uống ngaỳ một thang.

Trị đaị tiểu tiện ra máu, hoa, trắc bách diệp, mỗi vị 20g, hoàng liên, kinh  giới , mỗi vị 8g, sắc uống, ngày một thang chia hai lần.

Trị đi ngoài ra máu, các trường hợp huyết nhiệt, mao mạch giòn, huyết áp tăng, thảo quyết minh, đều sao vàng, lượng bằng nhau 8 – 10g, dưới dạng thuốc hãm, uống nhiều  ngày .

Trị trĩ nội, viêm ruột, quả ( sao đen), kim  ngân hoa, mỗi vị 100g, cam thảo 10g, nghệ vàng 10g. Tán bột mịn, ngày uống 3 lần, mỗi lần 8 – 10g.